Mùa thu là một mùa khá đặc biệt của bốn mùa. Hồi đi học lớp 8 cô giáo dạy văn tôi bảo: Mùa thu nhiệt độ rất bập bình. Nắng gió hanh gió hanh, trời cao vun vút. Vì vậy cơ thể con người điều tiết cầm chừng, mà nhu cầu trao đổi sinh học của con người với đất trời thì theo nhịp độ sinh học của cơ thể nên mùa thu rất dễ sinh ra bức bối. Tóm lại, mùa thu khiến chúng ta khó mà giữ được bình thường.
Cô giáo tôi nói chẳng sai. Thì đấy. Cái ông ở cuối phố nhà tôi, cứ mùa thu ông lại đeo nhiều thứ, như chùm ống bơ còn dán nhãn, các loại nút chai xâu dây thép thành từng vòng lỉnh kỉnh trên người. Mắt ông đeo mấy cái kính gẫy gọng chồng lên nhau, lóe trên gương mặt ông một mảng màu hồng. Ông lia đôi giầy há mõm rẽ lá vàng thành vệt như hai rãnh cầy.
Ở Châu Âu cũng thế, mùa thu con người cũng rất ỡm ờ. Tôi từ chớm thu hầu như đêm nào cũng khó ngủ. Cứ tầm gần sáng lại rón rén ôm chăn sang phòng riêng ngó sương mù bu đặc trên cây. Ngày nghỉ cuối tuần thường ngồi thừ bên cốc cà phê nguội ngắt vén rèm ngẩn ngơ nghe tiếng lá khô bị gió đuổi sàn sạt trên những mái nhà. Thu về làm tôi vướng lắm, nhất là đầu tháng 9, hiển hiện một chuyện gai người…
Tôi về thực tập ở một trường cấp 3 Thành phố được hai tuần thì anh bạn thân tôi mò tới. Anh tên Phược bộ đội phục viên, chưa vợ, hiện đang dạy văn ở trường sư phạm 10+3 (tương đương cao đẳng bây giờ) của tỉnh. Hồi còn ở trường có hôm anh hớt hải tìm tôi kéo ra quán chiếu, đọc tôi nghe những vần thơ anh vừa viết. Anh quí tôi vì lẽ tôi dân toán mà cũng nghiền văn, đọc nhiều những tác phẩm kinh điển của Tàu, yêu văn học Pháp, Nga sâu sắc. Anh quí tôi còn một nhẽ nữa là tôi chịu khó ngồi nghe anh đọc thơ và trân trọng những bài thơ anh viết trong đời quân ngũ.
Gần hết đợt thực tập, theo địa chỉ anh ghi lại tôi đến thăm anh.
Chiếc cầu xi măng lòng rộng hai bên thành nhô thấp có lan can giống như cái phà trườn sát mặt nước sông xanh ngặt. Con sông A thẳng tắp tả ly thoai thoải chạy tít đến cái cống to đùng xẻ bờ đê nối với dòng sông lớn. Nước sông được điều chỉnh qua hai cánh cống gắn hệ thống dây xích chạy trên ròng rọc. Đây là nguồn nước chính dùng cho sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp cả vùng. Ven chân đê là làng hoa, cây cảnh. Dịch ra xa là cây nông sản, lúa, trải dài bát ngát xanh xanh. Qua cây cầu là khu trường sư phạm đào tạo các thấy cô sau này về dạy cấp II của tỉnh. Cách khá xa trường là nhà máy sản xuất nước mắm, thùng chưng cất nhô cao hơi nước tỏa lan lan, vào ngày xả chượp mùi nước mắm non thơm nưng nức cả vùng.
Khu nhà ở của học viên toàn nhà lá, hội trường rộng thênh cũng lợp lá ban đêm muỗi nhiều vô kể. Hai khu vệ sinh nam nữ là hàng loạt hố xí 2 ngăn, tường vây xây con kiến lưng lửng. Khu tắm rửa là những bậc kè đá theo sông, nam một đoạn, nữ một đoạn, trên bờ buồng thay quần áo đóng cọc tre quây cót ép.
Khoa văn anh Phược dạy chiếm số đông là nữ. Những cô gái vừa học hết lớp mười, tóc thướt dài căng cặp ba lá. Lác đác có vài học viên đứng tuổi chắc là giáo viên cấp I theo học nâng cao. Các cô ăn mặc màu sắc, kiểu cách may khá giống nhau theo những tấm vải được phân phối tiêu chuẩn cán bộ mỗi năm 5 mét. Áo chiết ly, quần lụa, nếu là quần âu thì khóa quần đặt ở bên hông. Tôi đến chơi, nhìn thấy khách lạ má các cô ửng đỏ. Giờ nghỉ trưa các cô kéo nhau ra kè đá tuột đôi dép lê nhựa tái sinh kéo cao quần lụa khỏa chân. Nắng thu trải nhẹ, sóng lan xa loang loáng, dòng sông xôn xao…
Tôi đến đúng dịp trường anh có đêm thơ.
Anh Phược gọn gàng trong bộ quân phục mới giặt tỏa mùi hôi nhẹ của loại xà phòng 72%, dép cao su cài chéo quai hậu. Anh đi từ cuối hội trường lên bục tiếng chào thầy râm ran. Anh cười tươi rói phô hàm răng ngà khói thuốc có hai chiếc răng cửa hơi cách xa nhau.
Phần mở đầu là những bài thơ của học viên những thầy cô giáo tương lai, cảm xúc chiêm nghiệm về tình yêu cuộc sống vô bờ, tình yêu tình yêu lứa đôi, nỗi nhớ về những cái làng bình yên thấm đẫm mùi của rơm rạ bùn non hương lúa. Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng xuýt xoa gãi muỗi.
Anh Phược bước lên bục với vẻ mặt buồn. Quyển sổ cũ anh mang theo, hồi ở trường tôi đã lật dở nhiều lần. Quyển sổ chữ kín trang rất nhiều trang nhòe mực loang ố. Cảm xúc của một thời áo lính nằm nguyên trong đó. Những tứ thơ chợt đến trong những đêm luồn rừng vai nặng hành quân, những mẩu vụn ghi lại những tâm trạng người lính trước giờ nổ súng và bao nỗi giầy vò của anh sau mỗi lần vuốt mắt đồng đội hy sinh.
Anh lạc giọng vì cảm xúc dâng. Anh giới thiệu về bài thơ mà lần đầu đọc nước mắt tôi rơi lộp bộp lên những con chữ mà thời gian đã làm lẩn chìm vào trang giấy ố, không thể nhòe.
Hội trường nín lặng, nước mắt lăn lăn qua những kẽ tay, chỉ còn tiếng máy nổ đều đều phát ra dòng điện yếu ớt chỉ đủ đốt những dây bóng đèn đỏ quạch run run…
Tan đêm thơ tôi theo anh về phòng.
Phòng của anh Phược ở nằm ở đầu hồi cạnh phòng giáo vụ, bên kia sân bóng là khu tập thể giáo viên. Căn phòng hẹp kê chiếc giường cá nhân sát cửa sổ đan song tre, cửa liếp bên ngoài có đoạn gậy chống lên. Sát giường là bàn làm việc. Phía đầu giường là cái hòm gỗ cũ, bên trên tường đóng chiếc đinh gỗ treo ba lô. Tài sản của anh so với ngày ở trường thêm chiếc bếp dầu kèm ấm nhôm bé tẹo ngồi trên bốn viên ghạch vuông vức ở góc phòng.
Anh pha cà phê đãi tôi. Cà phê bột túm trong mảnh vải xô cho vào cái ấm pha trà dìm ngập nước sôi. Chờ cho ngấm. Anh với chiếc ba lô moi ở ngăn con cóc ra một thỏi đưởng mía đen dài như cái chuôi dao lấm tấm bột trắng gói trong giấy bóng. Dùng dao dọc giấy cứa cục đường một hồi không được, anh đưa lên miệng cắn rồi nhè vào hai cốc cà phê nghi nghút khói.
-Bài thơ ấy sao hôm nay anh lôi ra đọc… tâm trạng gì hả ông anh? Tôi hỏi.
Im lặng một lúc rồi anh kể: Ừ, cũng vào đầu tháng 9 này năm ngoái…
Buổi sáng hôm ấy náo loạn cả trường vì tin Hoài mất tích. Đám nữ khoa văn túm tụm thì thầm lo lắng.
Bà nhà bếp hốt hoảng: Sáng sớm tôi dậy để ghánh nước đổ bể thì thấy tiếng than khóc, tôi tưởng ma, sợ quá lên giường trùm kín chăn, một lúc sau nghe thấy tiếng ùm. Bà lu loa khóc, chỉ đôi dép và chiếc nón trên bờ: Giời ôi!… nó tự tử thật rồi!!!
Anh Phược tập hợp một đội trai tráng của trường nhảy xuống sông mò Hoài. Đứng trên bờ anh hét:
– Lặn sâu xuống tận đáy! Cậu nào nhô đầu lên tay phải có nắm bùn!
Sông sâu, nước mêng mang, không sao tìm thấy. Trường gọi báo công an xin đội thuyền chài.
Lưới bủa xuống dà theo một đoạn sông kéo hai cánh tay buộc dây điện vào nhau lộ dần lên mặt nước…
Pháp y vào cuộc mổ xẻ, miếng liếp quây tạm bị gió thốc, lộ thi thể trắng nhợt rung rung.
Cái chết của Hoài gây ra bao sự hoài nghi, nào là. Có khi yêu thằng nào nó bỏ. Độc địa hơn, hay chửa mẹ nó rồi nên quẫn…
Hoài mồ côi mẹ từ nhỏ, theo bố ra bắc tập kết. Thống nhất đất nước bố Hoài vào nam nhận công tác mới, để em theo học hết khóa rồi sẽ vào sau.
Cô bé Hoài sống cá tính, độc lập, tiết kiệm. Quần áo của Hoài đều do em tự tay đo cắt lúc rỗi ngồi khâu. Có mảnh vải đẹp em cắt xong mang lên hiệu trên phố nhờ may cho đỡ tiền công. Em ăn mặc đơn giản nhưng đẹp, lạ, khác với những cô gái cùng phòng. Hoài thân thiết với một cô tên Hương.
Nguyên nhân cái chết đã sáng tỏ khi nghe Hương kể: Một cô trong phòng của Hoài mất một mảnh vải, nhân lúc Hoài đi vắng các cô trong phòng tụ nhau lại mở va ly của Hoài ra khám, trước sự can ngăn quyết liệt của Hương.
Và nỗi đau làm chết lặng mọi người một lần nữa khi tìm thấy lá thư tuyệt mệnh của Hoài… “Ba kính yêu. Thế là ba con mình không gặp được nhau nữa rồi. Con muốn vĩnh viễn không muốn nhìn khuôn mặt độc ác của những kẻ đã nghi con ăn cắp. Chúng ác hơn cả đế quốc Mỹ. Con yêu ba. Hoài“
Kể lại cho tôi nghe chuyện cũ mà khuôn mặt anh vẫn chưa hết bàng hoàng. Anh bảo, ngày xưa tao vuốt mắt cho bao nhiêu đồng đội mà chưa một lần sợ hãi, bởi nụ cười mãn nguyện của nhiều thằng lúc chết. Cái chết của các em sao đơn giản thế nhỉ… làm tao ám ảnh khôn nguôi…
…!
Chia tay nhau trên cầu tôi hỏi:
– Con sông này chảy về đâu anh?
Anh bối rối:
– Hình như nó chảy ra… những con sông…
——-
Văn Tất Thắng, Chemnitz, Đức.